nón bảo hộ 3m Công ty đường cao tốc bảo vệ đất nước dây thép gai xây dựng ngoài trời cao tầng chống va chạm gà chim bồ câu lưới bảo vệ hàng rào luoi an toan ban cong. Hotline: 078.8283.789 - 0966.889.186; My Account; Wishlist; So sánh; Tổng quat. mặt bằng rộng scr Hệ thống lắp đặt năng lượng mặt trời ew có thể sử dụng được trên đất bằng và đất nghiêng với thiết kế đặc biệt có thể điều chỉnh góc đầu nối. đội ngũ kỹ thuật rộng rãi thiết kế cấu trúc giá đỡ chịu tải trọng gió lớn và chịu tải tuyết đối với điều Trả lời câu hỏi: Độ dày của lớp vỏ trái đất từ 5km đến? Lớp vỏ Trái Đất tương đối mỏng, với độ dày thay đổi từ 5 km, dưới đáy đại dương, lên tới 70 km ở các khu vực miền núi đang hoạt động của các lục địa. Cùng Sài Gòn Tiếp Thị hoàn thiện hành trang kiến thức của bạn với phần mở rộng dưới đây nhé! ThS Lê, Viết Long Nghiên cứu ứng dụng cảm biến quán tính để xác định phương hướng vật thể trong không gian 3 chiều (Imu-Based Attitude Estimation)/ Trường Cao đẳng Giao thông vận tải; Lê Viết Long. - TP. Hồ Chí Minh, 2019 Người tham gia chính: Nguyễn, Quý Tín; Nguyễn, Công Thành; TS Đỗ, Trí Nhựt; Mục tiêu của nhiệm Trong hệ mặt trời bao gồm có mặt trời và 9 hành tinh di chuyển quanh nó Kích thước và cấu trúc của sao Kim tương đương giống với Trái Đất, bầu khí quyển dày đặc, Lớp không khí ngoài cùng hiện lên với nhiều lớp mây ở những độ cao khác nhau, do kết quả của cash. Bầu trời là một thuật ngữ chung để chỉ bầu khí quyển của Trái đất, dày khoảng 60 dặm, theo NASA. Bầu khí quyển bao gồm các tầng khác nhau, với ngoại quyển đánh dấu ranh giới của không gian. Theo Đại học tại Albany, ngoại quyển có thể quan sát được từ không gian trải dài tối thiểu dặm so với bề mặt Trái đất. Ngoài ngoại quyển, các cấp của khí quyển bao gồm tầng đối lưu, tầng bình lưu, trung lưu và nhiệt quyển. Tất cả thời tiết xảy ra ở tầng thấp nhất của khí quyển, tầng đối lưu, đạt độ cao từ 5 đến 11 dặm. Những đám mây cao nhất có thể nhìn thấy trên bầu trời hình thành trong tầng đối lưu, khu vực chứa gần 99% hơi nước trong bầu khí quyển của Trái đất. Ngoại quyển là tầng cao nhất của khí quyển Trái đất, giáp với không gian liên hành tinh. Tuân Tử là nhân vật quan trọng trong giới tư tưởng Á Đông, là một trong những đại diện của Nho học, có nhiều cống hiến đối với sự phát triển của tư tưởng Nho gia. Nổi bật nhất của Tuân Tử là “Tính ác luận” do ông đề xướng, đối lập với “Tính thiện luận” của Mạnh Tử, ngoài ra còn có 10 câu danh ngôn kinh điển mà ông để lại tới ngày nay. Câu thành ngữ “Khiết nhi bất xả khiết”, nghĩa đen là không ngừng chạm khắc, ý nói, kiên trì bền lòng, không buông lơi. Câu thành ngữ này có nguồn gốc từ “Tuân Tử – Khuyến thuyết”. Tuân Tử tên Huống, là người nước Triệu cuối thời Chiến Quốc, là nhà triết học nổi tiếng cổ đại. Ông đã viết sách “Khuyến học”, vận dụng rất nhiều ví von sinh động để khuyên bảo khuyến khích mọi người kiên trì không buông lơi, nghiêm túc học tập. Trong đó có rất nhiều luận điểm tinh thâm thấu triệt giàu tính gợi mở. Tuân Tử là một nhân vật quan trọng trong giới tư tưởng Á Đông, là một trong những đại diện của Nho học, có nhiều cống hiến đối với sự phát triển của tư tưởng Nho gia. Các nhà tư tưởng, chính trị nổi tiếng cuối thời kỳ Chiến Quốc như Hàn Phi và Lý Tư đều là đệ tử có thành tựu của Tuân Tử. Sách “Tuân Tử” của ông luận thuyết rất rộng, từ triết học, luân lý, chính trị, kinh tế, quân sự, giáo dục, văn học, đều có luận thuật. Tư tưởng trung tâm của Khổng Tử là “Nhân”, của Mạnh Tử là “Nghĩa”, của Tuân Tử là “Lễ”. Tuân Tử coi trọng quy phạm hành vi của mọi người. Trong “Khuyến học thiên” có rất nhiều câu nói thú vị như “Học không bao giờ hết”, “Màu thiên thanh được lấy ra từ màu lam, mà lại xanh hơn”, “Băng do nước tạo thành, mà lại lạnh hơn nước”. Khi dạy bảo mọi người khiêm tốn xử thế, Tuân Tử nói “Không leo núi cao, thì không biết trời cao; Không lội suối sâu, thì không biết đất dày; Không nghe di ngôn của tiên vương, thì không biết học vấn rộng lớn”. Nổi bật nhất của Tuân Tử là ông đề xướng “Tính ác luận”, thành cặp đối lập với “Tính thiện luận” của Mạnh Tử. Tuân Tử cho rằng con người từ khi sinh ra là đã muốn thỏa mãn dục vọng, nếu dục vọng không được thỏa mãn thì sẽ xảy ra tranh chấp, vì vậy ông chủ trương nhân tính từ khi sinh ra là ác’, cái thiện là ngụy tạo’, tức con người tạo ra. Triết lý nhân sinh của Tuân Tử có ảnh hưởng lớn trong văn hóa truyền thống Á Đông. Tuân Tử. Ảnh Dưới đây là 10 câu danh ngôn kinh điển trong sách “Tuân Tử” 1. Người quân tử nói Học không thể nào hết Nguyên văn “Quân tử viết Học bất khả dĩ dĩ”. Biển học vô bờ, “sống đến già, học đến già”. “Dốc sức học tập chính là con người, bỏ bê học tập thành cầm thú”. Học là bản tính của con người, là một trong những điểm khác biệt giữa con người và cầm thú. Học tập đương nhiên không chỉ là tri thức trên sách vở. Xã hội ngày nay, cỗ xe phát triển xã hội đang tiến lên, không tích cực học tập thì sẽ bị rớt lại phía sau. Khéo học tập mới có thể nắm bắt được các kỹ năng sinh tồn trong xã hội hiện đại, mới thích ứng được sự phát triển nhanh chóng của xã hội. 2. Đức tính người quân tử không có gì khác biệt, mà là khéo mượn ở các vật Nguyên văn “Quân tử tính phi dị dã, thiện giả ư vật dã”. Người quân tử không phải sinh ra đã cao minh hơn người bình thường, mà là do họ khéo mượn sức mạnh của các vật để sử dụng. Khéo vận dụng các điều kiện bên ngoài để bù đắp những thiếu hụt của bàn thân, đó cũng là con đường đến thắng lợi. 3. Cỏ bồng mọc trong bụi gai, không nâng thì thẳng; Cát trắng ở thuốc nhuộm, đen cùng thuốc Nguyên văn “Bồng sinh ma trung, bất phù tắc trực; Bạch sa tại niết, dữ chi câu hắc”. Câu chuyện “Mạnh Mẫu tam thiên” Mẹ Mạnh Tử 3 lần chuyển nhà mọi người đều biết, hoàn cảnh có vai trò quan trọng đối với sự trưởng thành và tu dưỡng thân, tâm của con người. Con người trong giao tiếp xã giao cũng là môi trường quan trọng, đối với hoàn cảnh xung quanh chúng ta, cần thận trọng lựa chọn, không nên hùa theo các hoàn cảnh không tốt mà sa ngã. Con người ta muốn sống ở hoàn cảnh như thế nào, muốn ở bên những ai thì chính họ sẽ trở thành những người như thế. Ảnh 4. Không tích nửa bước đi, không thể đi ngàn dặm; Không tích dòng nước nhỏ, không thể thành biển sông; Một bước nhảy của ngựa kỳ ngựa ký, không thế là 10 bộ; Ngựa xấu 10 xe, thành công ở không buông bỏ; chạm khắc mà bỏ, thì như khúc gỗ mục; chạm khắc không ngừng, sắt đá thành tinh hoa Nguyên văn “Bất tích khuể bộ, vô dĩ trí thiên lý; Bất tích tiểu lưu, vô dĩ thành giang hải; Kỳ ký nhất dược, bất năng thập bộ; Nô mã thập giá, công tại bất xá; Khiết nhi xá chi, hủ mộc bất chiết; Khiết nhi bất xá, kim thạch khả lũ”. Tuân Tử nhấn mạnh tích lũy, không bước đi một bước ngắn thì sẽ chẳng đi nổi hành trình ngàn dặm; không bắt đầu hội tụ từ dòng nước nhỏ thì sẽ chẳng làm nên biển rộng sông dài. Ngựa dẫu tốt thế nào đi nữa, chỉ chạy một bước, thì cũng không bằng ngựa xấu kém nỗ lực chạy. Không chú trọng tích lũy, bỏ dở nửa chừng thì gỗ quý cũng thành khúc gỗ mục; kiên trì không mệt mỏi, thì sắt đá cũng thành đồ điêu khắc tinh mỹ. Tích lũy hậu thiên có thể bù đắp cho sự thiếu hụt của tiên thiên, muốn thành công, thì phải bỏ công phu khổ hạnh. 5. Không leo núi cao, không biết Trời cao; Không lội suối sâu, không biết đất dày Nguyên văn “Bất đăng cao sơn, bất tri thiên chi cao dã; Bất lâm thâm khê, bất tri địa chi hậu dã”. Trời cao thế nào, đất dày bao nhiêu, thông qua thực tiễn mới biết được. Tuân Tử nhấn mạnh hành động thực tế, chứ không phải “ngồi đó luận Đạo”. Trong hành động tự cường không ngừng nghỉ của mình, mới có thể đạt được tri thức chân chính, khai phát các tiềm năng còn chưa biết của mình. 6. Người tinh thông một sự việc, thì để họ quản lý xử lý sự việc đó, người tinh thông Đạo thì để họ quản lý xử lý hết thảy mọi sự việc Nguyên văn “Tinh ư vật giả dĩ vạt vật, tinh ư Đạo giả kiêm vật vật”. Người tinh thông về một sự việc cụ thể nào đó, thì có thể để người ấy xử lý các sự việc loại đó. Người tinh thông về Đạo, thì có thể xử lý tất cả các loại sự việc. Do đó người quân tử chuyên nhất vào học Đạo, có thể dùng Đạo trợ giúp khảo sát vạn vật. Chuyên tâm học Đạo, tâm chí sẽ thuần chính không sai lệch, dùng tư tưởng thuần chính, hành vi sáng suốt để đối đãi với vạn vật, như vậy vạn vật đều có thể được xử lý tốt. Trong “Luận ngữ”, Khổng Tử có giảng “Quân tử bất khí”, nghĩa là người quân tử không như món đồ, chỉ có công dụng ở một vài mặt nào đó. Đây là nói về tầng lớp nhân sỹ xã hội cổ đại, người quân tử không giống như đồ vật chỉ có tác dụng cụ thể nào đó, người quân tử ở vị trí của mình, có thể quản lý xử lý những sự việc và cả những người giống như món đồ. Người tinh thông Đạo dùng tư tưởng thuần chính, hành vi sáng suốt để đối đãi với vạn vật, như vậy vạn vật đều có thể được xử lý tốt. Ảnh 7. Người tài giỏi là giỏi biết không làm việc không cần thiết, người đại trí tuệ là giỏi biết không suy nghĩ những vấn đề không cần thiết Nguyên văn “Đại xảo tại sở bất vi, đại trí tại sở bất lự”. Người tài giỏi nhất, sở dĩ tài giỏi là do không làm những việc không đáng làm. Người sáng suốt trí tuệ nhất, sở dĩ sáng suốt là không suy nghĩ những vấn đề không đáng suy nghĩ. Con người quý ở chỗ sáng suốt tự biết mình, biết rõ thân phận mình, biết nên làm gì, không nên làm gì, việc gì cần suy nghĩ, việc gì không cần bận lòng, khi cần buông tay thì phải buông tay. Việc trong bổn sự của mình thì làm hết sức. 8. Người quân tử cung kính nghiêm túc với các việc mình làm chủ được, không ngưỡng mộ những việc do Trời quyết định, cho nên tiến bộ từng ngày. Tiểu nhân bỏ lỡ các việc của bản thân họ, ngưỡng mộ những việc do Trời quyết định, cho nên thụt lùi từng ngày Nguyên văn “Quân tử kính kỳ kỷ giả nhi bất mộ kỳ tại thiên giả, thị dĩ nhật tiến dã; Tiểu nhân thố taij kỷ giả nhi mộ kỳ tại thiên giả, thị dĩ nhật thoái dã”. Người quân tử thận trọng đối đãi với sự việc mà mình quyết định được, mình làm chủ được, không hâm mộ những sự việc do Trời quyết định, do đó họ tiến bộ từng ngày. Kẻ tiểu nhân lại không làm những việc mà mình có thể quyết định, có thể làm chủ, lại hứng thú với những việc do Trời quyết định, do đó họ bị thụt lùi từng ngày. Đó chính là điều người ta vẫn nói “Làm hết việc của con người, biết mệnh Trời”. Rất nhiều việc là sức con người không thể làm nổi, đó chính là cái gọi là “việc do Trời quyết định”, có tính ngẫu nhiên rất lớn, không thể gắng gượng cầu mong được. Nhưng rất nhiều người đối với những sự việc này lại luôn tâm niệm trong lòng, nắm chặt không buông lơi, ôm cây chờ thỏ, ảo tưởng rằng chiếc bánh sẽ rơi từ trên trời xuống, kỳ vọng trúng xổ số độc đắc, phát tài nhanh. Chi bằng thiết thực làm tốt công việc thường nhật của mình, bỏ công sức vào những việc có thể nắm bắt được trong tay mình, mỗi ngày như vậy mới có tiến bộ, tích tiểu thành đại, thì có nhiều khả năng có được thành công hơn. Người quân tử làm hết việc con người, hiểu mệnh trời. Ảnh 9. Thuận theo Trời tự nhiên mà ca tụng, sao bằng nắm được mệnh Trời quy luật tự nhiên mà sử dụng? Nguyên văn “Tòng thiên nhi tụng chi, thục dữ chế thiên mệnh nhi dụng chi?”. Thuận theo quy luật tự nhiên, rồi ca tụng nó, sao bằng nắm bắt được quy luật tự nhiên rồi sử dụng nó? Tư tưởng này rất hợp với nguyên tắc của xã hội hiện đại, con người và tự nhiên cùng tồn tại hài hòa, con người tôn trọng thiên nhiên, cũng có thể có thay đổi thích đáng tự nhiên để con người sử dụng. 10. Cái của con người không thể học được, không thể cầu được, gọi là tính bản tính tự nhiên vốn có. Cái của con người có thể học được, làm được, cầu được, gọi là ngụy tạo. Đó là phân biệt giữa bản tính và ngụy tạo Nguyên văn “Bất khả học, bất khả sự nhi tại nhân giả vị chi tính; khả học nhi năng, khả sự nhi thành chi tại nhân giả vị chi ngụy”. Ngụy tạo mà Tuân Tử nói ở đây là do con người tạo ra. Cái mà sinh ra đã có gọi là “tính” bản tính, con người không thể nào thay đổi được. Thông qua học tập sau này, nỗ lực có thể thay đổi được, thì gọi là “ngụy” ngụy tạo. Do đó Tuân Tử chủ trương “hóa tính khởi ngụy”, nghĩa là, chuyển hóa, dẫn dắt bản tính con người, hướng đến cái thiện, gây dựng quan niệm đạo đức thông qua giáo hóa, thông qua sức mạnh mình có thể nắm bắt được để thay đổi những thứ đã định. Lời bàn Khổng Tử 552 TCN – 479 TCN sáng lập học thuyết Nho gia, người kế thừa xuất sắc là Mạnh Tử, sinh ra sau Khổng Tử khoảng 160 năm. Còn Tuân Tử sinh sau Mạnh Tử khoảng 60-70 năm. Khổng Tử sống thời Xuân Thu, xã hội rối ren loạn lạc, ông đã gánh vác sứ mệnh gây dựng nền đức trị, khôi phục chế độ lễ nhạc của thời Chu Văn Vương. Ông đã đề xướng đức hạnh người quân tử phải có “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”, và dùng “NHÂN” để trị nước. Ông cùng học trò đi chu du các nước du thuyết. Nhưng đạo đức xã hội lúc đó thấp kém, Khổng Tử gọi là thời “lễ băng nhạc hoại”, không chư hầu nào đủ đức để trọng dụng ông. Vậy nên ông đành trở về dạy học. Thời Mạnh Tử, tư tưởng Nho gia đã rất phát triển, được xã hội, từ vua quan, sỹ đại phu đến thứ dân kính trọng. Mạnh Tử chú trọng “Nghĩa”, đề xướng “Tính thiện luận”, “Nhân chi sơ tính bản thiện”, cần “Lấy Đức thu phục người khác”, “Người nhân từ khắp thiên hạ không có kẻ thù nào”. Nhưng xã hội con người phức tạp, để tồn tại, có địa vị, danh tiếng, con người nảy sinh tâm ích kỷ, nên tranh giành chiếm đoạt lẫn nhau, khiến bản tính thiện dần dần mất đi. Do đó, làm người cần phải học Đạo, tu dưỡng đạo đức, để nuôi dưỡng tính thiện, tiêu trừ tính ác. Xã hội thời đó kính trọng ông, nhưng cũng không có vua nào đủ đức để sử dụng ông, nên cũng giống Khổng Tử, sau khi đi chu du các nước không được trọng dụng, ông quay về dạy học. Người đời sau coi ông là ông tổ thứ hai của Nho gia. Thời Tuân Tử cũng giống thời Mạnh Tử, ông cũng được các nước chư hầu kính trọng nhưng không được trọng dụng, sau khi chu du các nước, ông cũng quay về dạy học. Tuân Tử chú trọng “Lễ”, dùng lễ trị quốc. Ông đề xướng “tính ác luận”, con người sinh ra là tính ác, thế nên để cải tạo, thay đổi tính ác đó thì phải học Đạo, tu dưỡng đạo đức, học tập lễ nghi, thì áp chế cái ác, cho đến khi hết ác, thuần thiện. Nhân tính mà Tuân Tử và Mạnh Tử đề xuất là trái ngược nhau, nhưng con đường, mục đích lại khá tương đồng Học Đạo, tu dưỡng đạo đức, học tập lễ nghi. Tuy nhiên, tầng thứ của Tuân Tử thì thấp hơn Mạnh Tử rất nhiều. Đạo học người xưa có nội hàm bác đại tinh thâm, đều là chú trọng tu dưỡng tinh thần đề cao cảnh giới của con người. Ảnh Lão Tử nói “Đạo mất thì sinh đức, đức mất thì sinh nhân, nhân mất thì sinh nghĩa, nghĩa mất thì sinh lễ”. Từ đó có thể thấy Khổng Tử đạt đến Nhân, là tầng cao nhất của Nho gia, đã rất sát với Đạo và đức của Đạo gia. Mạnh Tử đạt đến Nghĩa, thấp hơn Khổng Tử, còn Tuân Tử đạt đến Lễ, thấp hơn Mạnh Tử. Cả Mạnh Tử và Tuân Tử đều tầng thấp hơn Khổng Tử nên không nhìn thấy đạo lý nhiều như Khổng Tử. Vạn vật trong Trời Đất đều tồn tại lý tương sinh tương khắc, trong âm có dương, trong dương có âm, trong thiện có ác, trong ác có thiện. Khổng Tử, và cao hơn là Lão Tử, đều nhìn thấu cái lý tương sinh tương khắc này. Mạnh Tử chỉ nhìn thấy bản tính thiện của con người, còn Tuân Tử lại chỉ nhìn thấy bản tính ác, đều khiếm khuyết. Con người vốn sinh ra có bản tính thiện, nhưng cũng đã tồn tại tính ác, giống như hình vòng tròn âm dương, bản tính thiện như con cá dương trắng nhưng đã tồn tại sẵn tính ác là chấm đen âm. Lý tương sinh tương khắc còn cho biết chúng chuyển hóa lẫn nhau, dương thịnh thì âm suy, thiện tăng thì ác giảm. Nếu tu luyện được thuần thiện, thì đã xuất khỏi tam giới, đã thành bậc Giác Giả. Theo Soundofhope Nam Phương biên dịch Trời cao đất rộng thênh thang Tiếng hò giọng hát ngân vang trên đồng, Cá tươi gạo trắng nước trong, Hai mùa lúa chín thơm nồng tình quê. Ai xui đất thấp trời cao Ai xui đất thấp trời cao Để cho tôi đứng tôi gào hết hơi Hết hơi chẳng thấy trả lời Thấy trong trời đất có tôi đứng gào Cùng thể loại Khen ai khéo đặt cái nghèo Khen ai khéo đặt cái nghèo Kém ăn kém mặc, kém điều khôn ngoan Bây giờ chẳng có bạn vàng Cho nên đổ cả khôn ngoan cho người Nhà giàu nói một hay mười Nhà khó nói chẳng được lời nào khôn Nhà nghèo như giỏ thủng trôn Nhà giàu như bạc bỏ hòm xưa nay Nghèo đâu nghèo mãi thế này Mất chúng mất bạn vì nay tội nghèo Bốn bề công nợ eo xèo Chỉ vì một nỗi tội nghèo mà thôi Tôi làm, tôi chẳng có chơi Nghèo sao nghèo mãi, trời ơi hỡi trời Khổ chi khổ lắm bớ trời Khổ chi khổ lắm bớ trời Chính giữa đòn gánh, hai đầu hai ki Chưa đi chưa biết Cửa Ông Chưa đi chưa biết Cửa Ông Đến đây mới biết đường không lối về Phu sắng-tẩy ai thuê mà đánh Thẻ than sàng ai bán mà mua Nhà quê còn có ngày mùa Đi nhặt, đi mót hột thừa mà ăn Ở đây rét đói quanh năm Đi câu cá rủi, đi săn hổ vồ Khu Bò Đái xương khô rải rác Bến Lò Vôi mấy xác bồng bềnh Lạc loài bể khổ mông mênh Thân vờ xơ xác lênh đênh chét mòn Trót nghe bầu bạn ra đây Lạ thung, lạ thổ, lạ cây, lạ nhà Đồn Cẩm Phả sơn hà bát ngát Huyện Hoành Bồ đá cát mênh mông Ai ơi đứng lại mà trông Kìa khe nước độc, nọ ông hùm già Vui gì mà rủ nhau ra Làm ăn khổ cực nghĩ mà tủi thân. Tìm vào đến mỏ Hòn Gai Tìm vào đến mỏ Hòn Gai Xin làm phu mỏ ở ngay dưới hầm Cuộc đời vất vả âm thầm Mông Dương, Cẩm Phả, Hà Lầm đều qua Ba toong đi lại nghênh ngang Ba toong đi lại nghênh ngang Chậm chân thì gậy nó phang vỡ đầu Công việc khoán nặng, khoán cao Làm mà không được xơi bao mũi giày Mồm quát tháo chân tay đá tát Đánh đập rồi cúp phạt hết lương. Em là con gái tỉnh Nam Em là con gái tỉnh Nam Chạy tàu vượt biển ra làm Cửa Ông Từ khi mới mở Cửa Ông Đi làm thì ít, đi rông thì nhiều Chị em cực nhục trăm điều Trước làm một lượt đã trèo cầu thang Đặt mình chưa ấm chỗ nằm Đã lại còi tầm hú gọi ra đi Dế kêu, suối chảy rầm rì Bắt cô trói cột não nề ngân nga Đoàn người hay quỷ hay ma Tay mai, tay cuốc, sương sa mịt mù Hai bên gió núi ù ù Tưởng oan hồn của dân phu hiện về. Hòn Gai có núi Bài Thơ Hòn Gai có núi Bài Thơ Nhác trông đàn khỉ đu đưa trên cành Đêm nằm nghe vượn cầm canh Khỉ hời, vượn hỡi thấu tình cho chăng? Ngày ngày anh vẫn đi làm Ngày ngày anh vẫn đi làm, Đi qua nhà máy nhặt ngầm bù loong Đem về anh bỏ vào hòm, Bắc cân bắc lạng còn non một vài Cẩm Phả xem thợ nào tài, Thì anh kéo nhẫn, hoa tai cho nàng, Người ta kéo bạc kéo vàng, Anh nay kéo xích sắt cho nàng, nàng ơi! Tháng lương được có ba hào Tháng lương được có ba hào, Thúng than trên đầu nặng lắm con ơn! Hòn Gai, Cẩm Phả, Đông Triều Hòn Gai, Cẩm Phả, Đông Triều Cuộc đời phu mỏ đói nghèo đắng cay Giam chân chốn sở than này Thân con ắt bón gốc cây giữa rừng. Có cùng từ khóa Dù cho đất đổi trời thay Dù cho đất đổi trời thay Trăm năm vẫn giữ lòng ngay với đời Thấy anh hay chữ, hỏi thử đôi lời Thấy anh hay chữ, hỏi thử đôi lời Vậy anh có biết ông trời họ chi? – Em ghé tai xuống đất, kêu đất nó ơi Rồi anh sẽ nói họ ông trời cho em nghe Chữ thiên là trời, trời cao lồng lộng Chữ thiên là trời, trời cao lồng lộng Chữ địa là đất, đất rộng mênh mông Chữ hà là sông, sông dài lai láng Em hỏi anh rày quê quán ở đâu? – Chữ thiên là trời, trời cao lồng lộng. Chữ địa là đất, đất rộng thinh thinh Nói ra sợ bạn buồn tình Đêm nằm lụy nhỏ như bình nước nghiêng Ngó lên trời, trời cao lồng lộng Ngó lên trời, trời cao lồng lộng, Ngó xuống đất, đất rộng mênh mông, Cá lòng tong ẩn bóng ăn rong, Anh đi Lục Tỉnh giáp vòng, Đến đây xui khiến đem lòng thương em. Dị bản Cây trên rừng hoá kiểng, Cá dưới biển hoá long, Con cá lòng tong ẩn bóng ăn rong. Anh đi Lục Tỉnh giáp vòng, Đến đây trời khiến đem lòng thương em. Trên trời có mây hóa kiểng, Dưới biển có cá hoá long. Anh đi Lục Tỉnh giáp vòng, Tới đây trời khiến đem lòng thương em. Trên rừng có cây hoa kiểng, Dưới biển có cá hóa long. Con cá lòng tong ẩn bóng ăn rong, Anh đi Lục Tỉnh giáp vòng, Tới đây trời khiến đem lòng thương em. Cây trên rừng hóa kiểng, cá ngoài biển hóa rồng Cá lòng tong giữa bóng ăn rong Anh đi lục tỉnh giáp vòng Tới đây ông trời khiến đem lòng yêu em. Làm người phải có trí khôn Làm người phải có trí khôn Nghĩ sao cho hết đất vuông trời tròn Lên rừng biết núi biết non Xuống khe biết nước chảy đá mòn, con cá lội giương vi Trời cao cao bấy không xa Trời cao cao bấy không xa Đất kia rộng vậy thế mà dày sâu Bể xa mây nước mù mù Biết mô cửa lạch biết mô sông cùng Trời cao hơn trán Trời cao hơn trán Trăng sáng hơn đèn Kèn kêu hơn quyển Biển rộng hơn sông Anh đừng thương trước uổng công Chờ cho thiệt vợ, thiệt chồng hãy thương Dị bản Trời cao hơn trán, đuốc sáng hơn đèn Kèn kêu hơn quyển, biển rộng hơn sông Anh thương em linh láng tràn đồng Bây giờ em lại kiếm chồng bỏ anh. Ngó lên trời, trời cao lồng lộng Ngó lên trời, trời cao lồng lộng Ngó xuống đất, đất rộng mênh mông Thương em xóm Thủ chưa chồng Anh muốn vô làm rể, biết em bằng lòng hay không? Cớ sao thấy mặt thì thương Cớ sao thấy mặt thì thương Hay chăng trời đất vấn vương cho mình? Em than một tiếng, trời đất xoay vần Em than một tiếng, trời đất xoay vần Chim trên rừng còn rơi lụy, anh là người trần, sao anh lại không thương? Dị bản Em than một tiếng than, trời đất xây vần, Chim trên cành còn khóc tức tưởi, huống chi kẻ phàm trần lại ngó lơ? Bạn vàng Bạn thân, bạn quý. Thường dùng để chỉ người yêu. Trôn Mông, đít, đáy thô tục. Ki Một loại giỏ đan bằng nan tre tương tự như cần xé thường gặp ở Trung và Nam Bộ, dùng để đựng trái cây, nông sản. Cửa Ông Địa danh nay là phường Cửa Ông, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Tại đây có đền Cửa Ông, được xem là một trong những ngôi đền đẹp nhất Việt Nam, thờ Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng cùng nhiều nhân vật lịch sử thời Trần. Đền Cửa Ông Phu sắng-tẩy Phu chuyên việc san gạt than trong hầm chứa của tàu. Công việc san gạt than trong hầm chứa và than sàng thường phải có quen biết, móc nối mới có và phải chia chác nhiều, không dễ tới tay người cu li. Bò Đái, Lò Vôi Hai địa danh có từ thời Pháp khai mỏ, vẫn còn dùng tới ngày nay. Vờ Còn gọi là con vờ vờ, con phù du, một loại côn trùng có cánh chỉ sống trong khoảng vài phút tới vài ngày sau khi đã trưởng thành và chết ngay sau giao phối và đẻ trứng xong. Điều đáng ngạc nhiên là ấu trùng vờ lại thường mất cả năm dài sống trong môi trường nước ngọt để có thể trưởng thành. Khi chết, xác vờ phơi trên các bãi sông hoặc trên mặt nước, bị các loài cá ăn thịt. Từ đó có thành ngữ "Xác như xác vờ, xơ như xơ nhộng" để chỉ sự rách nát, cùng kiệt. Con vờ Cẩm Phả Một địa danh nay là thành phố thuộc tỉnh Quảng Ninh. Tại đây từ xưa đã nổi tiếng với ngành khai thác than đá. Cẩm Phả cũng có nghề khai thác hải sản với hơn 50 km bờ biển, nhưng chủ yếu là đánh bắt gần bờ, sản lượng thấp. Cẩm Phả về đêm Hoành Bồ Địa danh nay là một huyện thuộc tỉnh Quảng Ninh. Hoành Bồ là một huyện miền núi, khá biệt lập với bên ngoài, cuộc sống người dân lam lũ, vất vả. Xã Dân Chủ, huyện Hoành Bồ Hồng Gai Cũng gọi là Hòn Gai, tên cũ là Bang Gai hoặc Áng Gai, nay là một phường thuộc thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Cuối thế kỷ 19 trở về trước, đây là một vùng vắng vẻ, cư dân thưa thớt, vốn chỉ là vũng biển đậu thuyền. Tại đây có mỏ Hòn Gai, một mỏ than đã được đưa vào khai thác từ thời Pháp thuộc. Một góc mỏ than Hòn Gai thời Pháp thuộc Mông Dương Địa danh nay là tên một phường thuộc thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Đây là nơi có mỏ than Mông Dương, một trong những mỏ thang có trữ lượng lớn và chất lượng tốt nhất từ thời Pháp thuộc. Khai thác than ở mỏ Mông Dương Hà Lầm Địa danh nay là một phường thuộc thành phố Hạ Long. Tại đây có mỏ Hà Lầm, một mỏ than đã được đưa vào khai thác từ thời Pháp thuộc. Ba toong Gậy chống, thường cong một đầu để làm tay cầm. Từ này có gốc từ tiếng Pháp bâton. Các viên chức, trí thức dưới thời Pháp thuộc thường mang theo gậy này. Khoán Giao ước làm xong công việc mới được lấy tiền. Cúp Cắt đọc theo âm tiếng Pháp của couper. Còi tầm Còi báo bắt đầu hoặc kết thúc giờ làm việc các xưởng, mỏ, công trường, nhà máy… Bắt cô trói cột Một loài chim thuộc họ Cu cu, chim trưởng thành nửa thân trên có màu trắng, nửa dưới có nhiều vạch trắng đen. Tiếng chim kêu nghe như "Bắt cô trói cột" nên dân gian lấy làm tên, sinh sống hầu như trên khắp nước ta. Nghe tiếng chim bắt cô trói cột. Bắt cô trói cột Dân phu Người dân lao động phải làm những công việc nặng nhọc trong chế độ cũ phu xe, phu mỏ, phu đồn điền. Núi Bài Thơ Một ngọn núi đá vôi cao trên 200m, nay thuộc địa phận phường Hồng Gai, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Có tên như vậy vì trên núi còn lưu lại bài thơ chữ Hán của vua Lê Thánh Tông 1468 và chúa Trịnh Cương 1729. Núi Bài Thơ Bù loong Cũng gọi là bu lông từ tiếng Pháp boulon, một sản phẩm cơ khí dạng hình thanh trụ tròn, tiện ren, dùng để lắp ráp, ghép nối, liên kết các chi tiết rời rạc thành một hệ thống hoàn chỉnh. Bù loong Hào Một trong các đơn vị tiền tệ hào, xu, chinh, cắc bắt đầu xuất hiện ở nước ta từ thời Pháp thuộc. Mười xu bằng một hào, mười hào bằng một đồng. Tiền giấy năm hào Đông Triều Tên một huyện thuộc tỉnh Quảng Ninh, là vùng đất cổ có từ thời Bắc thuộc, ghi đậm nhiều dấu ấn lịch sử và văn hóa. Đây cũng là nơi phát hiện ra than đá đầu tiên ở Việt Nam, và than đá Đông Triều đã được khai thác từ rất sớm – từ những năm 1820. Lăng mộ vua Trần ở đập Trại Lốc Thiên Trời từ Hán-Việt. Lai láng Tràn đầy khắp nơi như đâu cũng có. Từ này cũng được dùng để chỉ trạng thái tình cảm chứa chan, tràn ngập. Lòng thơ lai láng bồi hồi, Gốc cây lại vạch một bài cổ thi. Truyện Kiều Thinh thinh Thênh thênh phương ngữ Trung và Nam Bộ. Lòng tong Còn gọi là lòng đong, tên gọi chung của một số loại cá nước ngọt hoặc nước lợ, thân nhỏ, thường được người dân đem kho khô hoặc kho nước với tiêu bột ăn cơm nóng. Cá lòng tong chỉ vàng Nam Kỳ lục tỉnh Tên gọi miền Nam Việt Nam thời nhà Nguyễn, trong khoảng thời gian từ năm 1832 tới năm 1862 khi Pháp chiếm 3 tỉnh Miền Đông và năm 1867 khi Pháp chiếm nốt 3 tỉnh Miền Tây, bao gồm sáu lục tỉnh 1. Phiên An, sau đổi thành Gia Định tỉnh lỵ là tỉnh thành Sài Gòn, 2. Biên Hòa tỉnh lỵ là tỉnh thành Biên Hòa, 3. Định Tường tỉnh lỵ là tỉnh thành Mỹ Tho ở miền Đông; 4. Vĩnh Long tỉnh lỵ là tỉnh thành Vĩnh Long, 5. An Giang tỉnh lỵ là tỉnh thành Châu Đốc, 6. Hà Tiên tỉnh lỵ là tỉnh thành Hà Tiên ở miền Tây. Bản đồ Lục tỉnh năm 1808 Kiểng Cảnh phương ngữ Trung và Nam Bộ. Chữ "Cảnh" là tên của Nguyễn Phúc Cảnh con cả của chúa Nguyễn Ánh, người được đưa sang Pháp làm con tin để đổi lấy sự giúp đỡ đánh nhà Tây Sơn, vì vậy được gọi trại ra thành "kiểng" để tránh phạm húy. Mô Đâu, nào phương ngữ Trung Bộ. Cửa lạch Hay cửa biển, nơi sông đổ ra biển. Quản Người Nam Bộ đọc là quyển, một loại nhạc cụ hình ống giống như ống sáo, ống tiêu. Thiệt Thật phương ngữ Trung và Nam Bộ. Chữ này được đọc trại ra như vậy do kị húy bà vương phi Lê Thị Hoa được vua Gia Long đặt tên là Thật. Xóm Thủ Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Xóm Thủ, hãy đóng góp cho chúng tôi. Lụy Nước mắt phương ngữ Nam Bộ, nói trại từ lệ. Những bài ca dao - tục ngữ về "trời đất" Dù cho đất đổi trời thay Dù cho đất đổi trời thay Trăm năm vẫn giữ lòng ngay với đời Thấy anh hay chữ, hỏi thử đôi lời Thấy anh hay chữ, hỏi thử đôi lời Vậy anh có biết ông trời họ chi? – Em ghé tai xuống đất, kêu đất nó ơi Rồi anh sẽ nói họ ông trời cho em nghe Chữ thiên là trời, trời cao lồng lộng Chữ thiên là trời, trời cao lồng lộng Chữ địa là đất, đất rộng mênh mông Chữ hà là sông, sông dài lai láng Em hỏi anh rày quê quán ở đâu? – Chữ thiên là trời, trời cao lồng lộng. Chữ địa là đất, đất rộng thinh thinh Nói ra sợ bạn buồn tình Đêm nằm lụy nhỏ như bình nước nghiêng Ngó lên trời, trời cao lồng lộng Ngó lên trời, trời cao lồng lộng, Ngó xuống đất, đất rộng mênh mông, Cá lòng tong ẩn bóng ăn rong, Anh đi Lục Tỉnh giáp vòng, Đến đây xui khiến đem lòng thương em. Dị bản Cây trên rừng hoá kiểng, Cá dưới biển hoá long, Con cá lòng tong ẩn bóng ăn rong. Anh đi Lục Tỉnh giáp vòng, Đến đây trời khiến đem lòng thương em. Trên trời có mây hóa kiểng, Dưới biển có cá hoá long. Anh đi Lục Tỉnh giáp vòng, Tới đây trời khiến đem lòng thương em. Trên rừng có cây hoa kiểng, Dưới biển có cá hóa long. Con cá lòng tong ẩn bóng ăn rong, Anh đi Lục Tỉnh giáp vòng, Tới đây trời khiến đem lòng thương em. Cây trên rừng hóa kiểng, cá ngoài biển hóa rồng Cá lòng tong giữa bóng ăn rong Anh đi lục tỉnh giáp vòng Tới đây ông trời khiến đem lòng yêu em. Làm người phải có trí khôn Làm người phải có trí khôn Nghĩ sao cho hết đất vuông trời tròn Lên rừng biết núi biết non Xuống khe biết nước chảy đá mòn, con cá lội giương vi Trời cao cao bấy không xa Trời cao cao bấy không xa Đất kia rộng vậy thế mà dày sâu Bể xa mây nước mù mù Biết mô cửa lạch biết mô sông cùng Ai xui đất thấp trời cao Ai xui đất thấp trời cao Để cho tôi đứng tôi gào hết hơi Hết hơi chẳng thấy trả lời Thấy trong trời đất có tôi đứng gào Trời cao hơn trán Trời cao hơn trán Trăng sáng hơn đèn Kèn kêu hơn quyển Biển rộng hơn sông Anh đừng thương trước uổng công Chờ cho thiệt vợ, thiệt chồng hãy thương Dị bản Trời cao hơn trán, đuốc sáng hơn đèn Kèn kêu hơn quyển, biển rộng hơn sông Anh thương em linh láng tràn đồng Bây giờ em lại kiếm chồng bỏ anh. Ngó lên trời, trời cao lồng lộng Ngó lên trời, trời cao lồng lộng Ngó xuống đất, đất rộng mênh mông Thương em xóm Thủ chưa chồng Anh muốn vô làm rể, biết em bằng lòng hay không? Cớ sao thấy mặt thì thương Cớ sao thấy mặt thì thương Hay chăng trời đất vấn vương cho mình? Em than một tiếng, trời đất xoay vần Em than một tiếng, trời đất xoay vần Chim trên rừng còn rơi lụy, anh là người trần, sao anh lại không thương? Dị bản Em than một tiếng than, trời đất xây vần, Chim trên cành còn khóc tức tưởi, huống chi kẻ phàm trần lại ngó lơ? Thiên Trời từ Hán-Việt. Lai láng Tràn đầy khắp nơi như đâu cũng có. Từ này cũng được dùng để chỉ trạng thái tình cảm chứa chan, tràn ngập. Lòng thơ lai láng bồi hồi, Gốc cây lại vạch một bài cổ thi. Truyện Kiều Thinh thinh Thênh thênh phương ngữ Trung và Nam Bộ. Lòng tong Còn gọi là lòng đong, tên gọi chung của một số loại cá nước ngọt hoặc nước lợ, thân nhỏ, thường được người dân đem kho khô hoặc kho nước với tiêu bột ăn cơm nóng. Cá lòng tong chỉ vàng Nam Kỳ lục tỉnh Tên gọi miền Nam Việt Nam thời nhà Nguyễn, trong khoảng thời gian từ năm 1832 tới năm 1862 khi Pháp chiếm 3 tỉnh Miền Đông và năm 1867 khi Pháp chiếm nốt 3 tỉnh Miền Tây, bao gồm sáu lục tỉnh 1. Phiên An, sau đổi thành Gia Định tỉnh lỵ là tỉnh thành Sài Gòn, 2. Biên Hòa tỉnh lỵ là tỉnh thành Biên Hòa, 3. Định Tường tỉnh lỵ là tỉnh thành Mỹ Tho ở miền Đông; 4. Vĩnh Long tỉnh lỵ là tỉnh thành Vĩnh Long, 5. An Giang tỉnh lỵ là tỉnh thành Châu Đốc, 6. Hà Tiên tỉnh lỵ là tỉnh thành Hà Tiên ở miền Tây. Bản đồ Lục tỉnh năm 1808 Kiểng Cảnh phương ngữ Trung và Nam Bộ. Chữ "Cảnh" là tên của Nguyễn Phúc Cảnh con cả của chúa Nguyễn Ánh, người được đưa sang Pháp làm con tin để đổi lấy sự giúp đỡ đánh nhà Tây Sơn, vì vậy được gọi trại ra thành "kiểng" để tránh phạm húy. Mô Đâu, nào phương ngữ Trung Bộ. Cửa lạch Hay cửa biển, nơi sông đổ ra biển. Quản Người Nam Bộ đọc là quyển, một loại nhạc cụ hình ống giống như ống sáo, ống tiêu. Thiệt Thật phương ngữ Trung và Nam Bộ. Chữ này được đọc trại ra như vậy do kị húy bà vương phi Lê Thị Hoa được vua Gia Long đặt tên là Thật. Xóm Thủ Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Xóm Thủ, hãy đóng góp cho chúng tôi. Lụy Nước mắt phương ngữ Nam Bộ, nói trại từ lệ.

trời cao đất dày